Sự nghiệp Émile_Zola

Chân dung Émile Zola do Édouard Manet vẽ năm 1868

Sự nghiệp báo chí

Từ năm 1863, Zola bắt đầu cộng tác với các chuyên mục văn học của nhiều báo khác nhau, đến năm 1866 thì ông bỏ công việc ở Hachette để trở thành phóng viên chính thức cho tờ L'Événement chuyên về văn học và nghệ thuật. Nhờ công việc này Zola bắt đầu làm quen với nhiều nghệ sĩ lớn như các họa sĩ tên tuổi Édouard Manet, Camille Pissarro hay anh em EdmondJules de Goncourt. Bên cạnh L'Événement, Émile Zola còn viết bài cho các báo L'Illustration, Le Figaro, Globe, Gaulois và Libre Pensée.

Sự nghiệp văn học

Là một người hâm mộ Balzac, đặc biệt là bộ tiểu thuyết Tấn trò đời (La Comédie humaine), từ năm 1868 Zola bắt đầu lập đề cương sáng tác một bộ tiểu thuyết đồ sộ tương tự Tấn trò đời, bộ tiểu thuyết này sau đó lên tới 20 quyển và được lấy tên là Les Rougon-Macquart với chú thích "lịch sử tự nhiên và xã hội của một gia đình trong Đế Chế Thứ Hai". Zola đã giành 25 năm để hoàn thành Les Rougon-Macquart[2], bộ tiểu thuyết chỉ được hoàn thành vào năm 1893.

Năm 1870 Zola cưới Alexandrine Méley tuy vậy hai người chưa bao giờ có con chung. Cùng năm này ông được mời làm thư ký cho nghị sĩ cánh tả Alexandre Glais-Bizoin. Năm 1873, Émile bắt đầu liên hệ với các nhà văn lớn như Gustave Flaubert, Alphonse Daudet. Zola trở thành người đi đầu cho trào lưu văn học theo chủ nghĩa tự nhiên (naturalisme), ông cùng với Joris-Karl Huysmans, Paul Alexis, Léon Hennique, Guy de Maupassant đã cho xuất bản tập sách Les Soirées de Médan. Năm 1888 ông bắt đầu đi lại với bà Jeanne Rozerot, người đã sinh cho nhà văn hai đứa con.

Sau Les Rougon-Macquart, Zola bắt đầu viết bộ tiểu thuyết mới, Ba thành phố (Les Trois Villes) bao gồm các tiểu thuyết Lourdes (1894), Rome (1895) và Paris (1898). Bộ ba tiểu thuyết kể về cuộc phiêu lưu của Pierre Froment, người chứng kiến sự đối nghịch giữa khoa học và thuyết duy linh ở cuối thế kỉ 19 khi là con trai của một nhà khoa học và một bà vợ sùng đạo. Sau Ba thành phố là Bốn chân lý (Les Quatre Évangiles) gồm Fécondité (1899), Travail (1900), Vérité (1902) và cuốn tiểu thuyết chưa kịp hoàn thành Justice.